Diễn biến Chiến_dịch_Overlord_(1944)

Giai đoạn 1: Hình thành đầu cầu đổ bộ

Bài chi tiết: Chiến dịch Neptune

Các cậu sắp được tham gia vào cuộc Đại Thập tự chinh mà chúng ta đã nỗ lực chuẩn bị trong nhiều tháng qua. Cả thế giới đều đang dõi theo các cậu. Những hy vọng và lời cầu nguyện của những người yêu tự do ở khắp mọi nơi trên thế giới sẽ đồng hành cùng các cậu. Cùng với những người bạn Đồng Minh dũng cảm và các đơn vị anh em chiến hữu trên các Mặt trận khác, các cậu sẽ mang sự hủy diệt đến bộ máy chiến tranh của Đức Quốc Xã, sự sụp đổ của chế độ chuyên chế của Đức Quốc Xã đối với các dân tộc bị áp bức ở Châu Âu và sự an toàn cho chính chúng ta trong một thế giới tự do.

— Eisenhower, Bức thư gửi tới các binh sĩ Đồng Minh trước ngày đổ bộ.[95]
Trung sĩ Joseph F. Gorenc, một lính dù thuộc Đại đội HQ, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 506, Sư đoàn Không vận 101, đang trèo lên máy bay C-47 Dakota tại sân bay RAF Exeter, Devon, Anh, đêm 5 tháng 6 năm 1944.

Vào tháng 5 năm 1944, 1,5 triệu lính Mỹ đã được điều động tới nước Anh. Phần lớn trong số họ được đóng quân tại các doanh trại tạm thời ở các vùng tây nam nước Anh để chuẩn bị cho việc vượt Eo biển Manche.[96] Các đơn vị Anh và Canada đóng quân ở khu vực phía đông, trải dài từ Southampton tới Newhaven. Một hệ thống phức tạp được gọi là Movement Control (tạm dịch: Hệ thống Kiểm soát Di chuyển), đã được thiết lập để đảm bảo rằng binh lính và phương tiện được rời đi đúng lịch trình từ 20 điểm xuất phát.[68] Một số người đã phải ở trên tàu gần một tuần trước khi khởi hành.[97] Các đơn vị tàu sẽ di chuyển đến một điểm tập kết (có biệt danh "Rạp xiếc Piccadilly") ở phía đông nam Đảo Wight để tập hợp thành các đoàn lớn trước khi vượt Eo biển Manche.[98] Các đơn vị tàu quét mìn bắt đầu làm nhiệm vụ dọn đường vào chiều ngày 5 tháng 6,[72] và hàng nghìn máy bay ném bom đã cất cánh trước hoàng hôn đển không kích các hệ thống phòng thủ ở xung quanh Normandie.[99] Khoảng 1.200 máy bay đã cất cánh trước nửa đêm để thả ba sư đoàn không vận vào phía sau phòng tuyến quân Đức.[100] Sư đoàn Không vận 82 và 101 của người Mỹ sẽ đổ bộ ở phía tây Bãi Utah, với nhiệm vụ chiếm và kiểm soát các con đường đắp cao chạy qua các khu vực đã bị quân Đức làm ngập. Sư đoàn Không vận số 6 của Anh sẽ đổ bộ ở sườn phía đông, và được giao nhiệm vụ chiếm giữ nguyên vẹn các cây cầu ở Sông Orne và Kênh đào Caen, phá hủy năm cây cầu ở Sông Dives cách bãi đổ bộ gần 10 kilomét về phía đông, và vô hiệu hóa Trận địa pháo Merville (có nhiệm vụ bảo vệ Bãi Sword).[101] Các lính dù Pháp Tự Do thuộc các Lữ đoàn SAS được giao nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu tại Brittany từ ngày 5 tháng 6 tới tháng 8 trong các Chiến dịch Dingson, Samwest, và Cooney.[102][103] Pháo kích Hải quân sẽ được tiến hành lúc 5 giời 45 phút sáng và kéo dài tới 6 giời 25 phút sáng, với sự tham gia của năm thiết giáp hạm, 22 tuần dương hạm, 65 khu trục hạm và hai tàu monitor.[68][104] Bộ binh sẽ tiến hành đổ bộ vào lúc 6 giờ 30 phút sáng.[105]

Đổ bộ

Lính Mỹ thuộc Sư đoàn Bộ binh số 4 đổ bộ tại Bãi Utah, 6 tháng 6 năm 1944.

Trong quá trình đổ bộ vào Bãi Utah, các xuồng đổ bộ chở những đơn vị thuộc Sư đoàn Bộ binh số 4 Hoa Kỳ đã bị dòng chảy mạnh đẩy về phía nam, và đổ bộ tại vị trí cách khu vực chính thức khoảng 1,8 kilomét. Họ chỉ gặp kháng cự lẻ tẻ và chịu thương vong gần 200 người.[106][107] Dù đổ bộ lệch khu vực chính thức, nhưng lính Mỹ tại bãi Utah đã tiến sâu được bốn dặm vào trong đất liền và liên kết được với các đơn vị của Sư đoàn Không vận 101.[108][109] Các đơn vị lính dù đổ bộ vào phía tây Utah không gặp nhiều thuận lợi, khi chỉ có 10% quân số được thả đúng vị trí. Việc tập hợp lại các đơn vị để chiến đấu gặp nhiều bất lợi do lính dù mất nhiều radio trong lúc nhảy dù, địa hình thì phức tạp với những rặng cây, tường đá và đầm lầy xen kẽ.[110][111] Sư đoàn Không vận 82 chiếm thành công được thị trấn chiến lược Sainte-Mère-Église và nhanh chóng thiết lập được vành đai phòng thủ ở sườn phía tây.[112] Tuy vậy, Sư đoàn 82 đã không chiếm thành công các cây cầu bắc qua Sông Merderet, khiến việc tiến quân vào sâu trong Bán đảo Cotentin bị trì trệ.[113] Sư đoàn Không vận 101 bảo vệ thành công sườn phía đông và chiếm được các chốt kiểm soát trên Sông Douve tại La Barquette, nhưng họ không chiếm được các cây cầu ở đó trong ngày đầu tiên.[111][114]

Tại Mũi Hoc, một đơn vị gồm 200 lính thuộc Tiểu đoàn Biệt Kích số 2 của Trung tá James Rudder, có nhiệm vụ nhiệm vụ trèo lên vách đá cao 30 mét bằng dây thừng gắn móc và thang để tiêu diệt những khẩu pháo phòng thủ bờ biển 155 mm được đặt trên vách đá. Nhưng khi chiếm được vách đá, họ phát hiện ra rằng các khẩu pháo đã được kéo sâu vào trong đất liền. Sau một hồi tìm kiếm, những người lính Biệt Kích phát hiện ra cả năm khẩu pháo đều được ngụy trang kỹ sau các rặng cây, cách khu vực Mũi Hoc khoảng 550 mét về phía nam, và phá hủy chúng thành công bằng lựu đạn nhiệt nhôm. Lúc 9 giờ sáng, lực lượng Biệt Kích đã phong toả toàn bộ con đường từ Saint-Pierre-du-Mont tới Grandcamp phía sau Mũi Hoc. Trong suốt hai ngày tiếp theo, lính Biệt Kích liên tục đánh bật các đợt phản công của quân Đức, nhưng chịu thương vong nặng nề và nhiều lính Mỹ bị bắt làm tù binh. Đến cuối ngày 7 tháng 6, Trung tá Rudder chỉ còn hơn 90 lính còn khả năng chiến đấu. Sáng ngày 8 tháng 6, quân tiếp viện Mỹ từ Bãi Omaha bao gồm Tiểu đoàn Biệt Kích số 5 và Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Bộ Binh 116, cùng với xe tăng thuộc Tiểu đoàn Thiết giáp 743 bắt đầu tiến vào Mũi Hoc và phá vây cho đơn vị của Trung tá Rudder.[115]

Tàu đổ bộ cỡ nhỏ USS LCI(L)-553 và USS LCI(L)-410 đang đổ quân tại Bãi Omaha, sáng 6 tháng 6 năm 1944.

Omaha, bãi biển được quân Đức phòng thủ chắc chắn nhất, được giao cho Sư đoàn Bộ binh số 1Sư đoàn Bộ binh 29.[107][116] Họ phải đối mặt với quân phòng thủ thuộc Sư đoàn Bộ binh 352 của Đức. Dòng chảy mạnh đã đẩy nhiều xuồng đổ bộ về phía đông của vị trí dự định đổ bộ và khiến nhiều xuồng phải dừng lại ngoài khơi. Do nhiều ổ đề kháng của Đức ở Omaha vẫn còn nguyên vẹn sau đợt pháo kích và ném bom buổi sáng, nên thương vong của quân Đồng Minh tại đây cao hơn toàn bộ bốn khu vực còn lại cộng lại.[117] Thương vong của các đơn vị công binh đã khiến việc dọn dẹp chướng ngại vật trên bãi biển gặp nhiều vấn đề, và việc đưa phương tiện vào bờ buộc phải dừng lại lúc 8 giờ 30 phút sáng. Một nhóm khu trục hạm đã tiến vào gần bờ để bắn phá các khu công sự, ụ súng máy của Đức để hỗ trợ lính Mỹ tiến vào đất liền.[118] Đến cuối buổi sáng, chỉ có khoảng 600 lính Mỹ đã vượt qua được hàng phòng thủ dày đặc của Đức và trèo lên được các ụ đất cao để tiếp tục chiến đấu. Đến giữa trưa, khi trận địa pháo của Đức bị tiêu diệt và nhiều ụ súng máy Đức dần cạn kiệt dạn dược, quân Mỹ bắt đầu mở nhiều tuyến đổ bộ ở trên bãi biển và tiêu diệt toàn bộ các ổ đề kháng để mở đường cho các phương tiện có thể tiến vào.[119] Đầu cầu đổ bộ ở Omaha dần được quân Mỹ mở rộng trong những ngày tiếp theo, và mục tiêu trong Ngày D ở Bãi Omaha được hoàn thành vào Ngày D+3, tức ngày 9 tháng 6.[120]

Binh lính thuộc Tiểu đoàn Đặc công 47 đang đổ bộ vào Bãi Gold, 6 tháng 6 năm 1944.

Tại Bãi Gold, gió lớn và biển động khiến các tàu đổ bộ gặp nhiều khó khăn, và các xe tăng Sherman DD được các xuống đổ bổ thả ở sát bãi biển thay vi thả ở ngoài khơi theo kế hoạch.[121] Ba trong số bốn khẩu pháo đựoc đặt trong lô cốt tại Trận địa pháo Longues-sur-Mer đã bị hỏa lực pháo của các tuần dương hạm AjaxArgonaut vô hiệu hóa lúc 6 giờ 20 phút sáng. Khẩu pháo thứ tư đã tích cực bắn phá vào các đơn vị người Anh trên bãi biển tới khi đầu hàng vào chiều ngày 7 tháng 6. Các đơn vị máy bay hỗ trợ đã thất bại trong việc vô hiệu hóa cứ điểm Le Hamel, có lớp tường dày và có tầm nhìn bao quát toàn bộ bãi biển. Khẩu pháo 75 mm của cứ điểm này tiếp tục hoạt động tới khi bị phá hủy bởi một chiếc Churchill AVRE lúc 16 giờ chiều. Cứ điểm thứ hai ở La Rivière, nơi đặt một khẩu pháo 88 mm, bị tiêu diệt bởi xe tăng Anh lúc 7 giờ 30 phút sáng. Ở khu vực phía tây, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn Hampshire nhanh chóng chiếm được Arromanches, và Lữ đoàn Bộ binh 69 ở khu vực phía đông đã liên kết thành công với lực lựong Canada ở Bãi Juno. Tiểu đoàn Đặc công 47 tấn công và đánh chiếm Port-en-Bessin vào ngày 7 tháng 6. Do vấp phải sự chống trả mãnh liệt của Sư đoàn Bộ binh 352, quân Anh phải mất gần một ngày để chiếm Bayeux, mục tiêu chính của người Anh tại khu vực.[122]

Cuộc đổ bộ vào Bãi Juno gặp nhiều trì hoãn do biển động mạnh, khiến các đơn vị thiết giáp Anh và Canada bị đổ bộ chậm hơn so với các đơn vị bộ binh. Do không có sự trợ giúp kịp thời của xe tăng, các đơn vị bộ binh Canada trong đợt đổ bộ đầu tiên gặp phải thương vong nặng. Phần lớn các ổ đề kháng đặt dọc bãi biển đều còn nguyên vẹn do các trận pháo kích buổi sớm đều bắn trượt mục tiêu. Dù gặp nhiều khó khăn, quân đội Canada vẫn mở thành công nhiều đường tiến vào đất liền. Đến cuối Ngày D, một hành lang đổ bộ giữa Bãi Juno và Bãi Gold được thiết lập và bao trùm một khu vực rộng 19 kilomét và dài 10 kilomét.[123]

Lính Đặc công Thủy quân Lục chiến Hoàng Gia đang tiến vào đất liền sau khi đổ bộ vào Bãi Sword, 6 tháng 6 năm 1944.

Bãi Sword, Lữ đoàn Bộ binh số 8 bắt đầu cuộc đổ bộ lúc 7 giờ 25 phút với sự hỗ trợ của 21 trên 25 xe tăng Sherman DD. Sự kháng cự của quân Đức tại bãi biển ban đầu khá mạnh, nhiều xe tăng Anh bị bắn hạ và gây nhiều thương vong cho quân đổ bộ; thủy triền lên nhanh khiến việc di chuyển của các xe thiết giáp gặp nhiều bất lợi và gây tình trạng tắc nghẽn nặng trên bãi biển.[124] Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn Bộ binh Hạng nhẹ King's Shropshire đã nhanh chóng tiến công vào Caen, nhưng khi chỉ cách trung tâm Caen vài kilômét, họ phải rút lui do không có sự hỗ trợ của xe tăng.[125] Lúc 16 giờ, Sư đoàn Panzer 21 tổ chức một cuộc phản công vào khu vực nối giữa Bãi Sword và Bãi Juno, suýt chút nữa thành công trong việc chia cắt hai khu vực đổ bộ do gặp phải sự kháng cự mạnh của Sư đoàn Bộ binh số 3 Anh Quốc. Vào cuối Ngày D, 28.845 lính thuộc Quân Đoàn I đã đổ bộ thành công vào Bãi Sword với mức thương vong là 683 người.[126][127]

Những thành phần đầu tiên của Cảng nhân tạo Mulberry được đưa vào Normanide vào ngày 7 tháng 6 và bắt đầu sử dụng để vận chuyển hàng hóa và trang thiết bị vào đất liền từ giữa tháng 6.[47] Cảng 'Mulberry B' được lắp đặt ở khu vực Arromanches của người Anh, và cảng 'Mulberry A' được xây dựng tại Bãi Omaha của người Mỹ. Ngày 19 tháng 6, một trong những cơn bão tồi tệ nhất tại khu vực Normandie trong 40 năm qua đổ bộ vào khu vực. Cơn bão diễn ra suốt ba ngày và sau ngày 22 tháng 6, khiến 'Mulberry A' bị hư hại nặng đến mức bộ chỉ huy Đồng Minh quyết định không sửa chữa lại cảng, và việc tiếp liệu được tiến hành trực tiếp trên bãi biển tới khi các hệ thống cảng khác tại Normandie được chiếm giữ.[128] Trong vỏn vẹn ba ngày hoạt động, 'Mulberry A' tại Omaha đã tiếp nhận 11.000 binh lính, 2.000 phương tiện và 9.000 tấn thiết bị và vật tư các loại.[129][130]

Thương vong của quân Đồng Minh trong Ngày D là ít nhất 10.000 lính, trong số đó 4.414 lính được xác nhận là tử trận.[131] Thương vong của quân Đức ước tính từ 4.000 tới 9.000 người.[132] Trong số những mục tiêu chính của chiến dịch, bao gồm chiếm giữ Carentan, Saint-Lô, Caen, và Bayeux trong Ngày D (6 tháng 6) và toàn bộ các bãi biển (ngoại trừ Utah) được liên kết với nhau để tạo thành một đầu cầu đổ bộ lớn rộng từ 10 đến 16 kilomét, không mục tiêu nào được hoàn thành.[133] Chỉ có hai trong số năm bãi biển (Juno và Gold) liên kết được với nhau trong ngày đầu tiên, và năm bãi biển được liên kết với nhau thành công vào ngày 12 tháng 6. Tính đến thời điểm đó, quân Đồng Minh đã mở rộng mặt trận lên gần 100 kilomét và tiến sâu được 24 kilomét vào trong đất liền.[134] Caen được quân Đức bảo vệ thành công trong Ngày D.[135]

Cherbourg

Bài chi tiết: Trận Cherbourg (1944)
Chuẩn Đô đốc Walter Hennecke, Trung tướng Karl-Wilhelm von Schlieben và Thiếu tướng Joseph L. Collins đang bàn luận về các điều khoản đầu hàng tại Cherbourg.

Ở khu vực phía tây dãy hành lang được quân Đồng Minh thiết lập tại Normandie là khu vực Cảng Cherbourg, một bến cảng quan trọng tại khu vực Bán đảo Cotetin. Chiếm được bến cảng nước sâu này đồng nghĩa với việc quân Đồng Minh có thể luân chuyển hàng hóa từ Anh vào Pháp một cách nhanh chóng và dễ dàng. Địa hình ở phía sau khu vực Bãi UtahOmaha phần lớn bocage (địa hình hỗn hợp giữa rừng và đồng cỏ), với các rặng cây dài và dày cao từ 0,9 tới 1,2 mét được bao bọc bởi các con mương ở hai bên.[136] Nhiều khu vực còn có thêm các chốt kiểm soát và ụ súng máy của quân đội Đức.[137] Phần lớn các con đường đều quá hẹp cho xe tăng và nhiều cánh đồng ở phía sau Utah đã bị quân Đức làm ngập nước.[136][138] Các đơn vị Đức đóng ở khu vực bán đảo chủ yếu là Sư đoàn Bộ binh 91, Sư đoàn Bộ binh 243 và Sư đoàn Bộ binh 709.[139] Đến ngày D+3 (tức ngày 9 tháng 6), Bộ chỉ huy cấp cao Đồng Minh nhận ra rằng họ không thể chiếm Cherbourg một cách nhanh chóng theo kế hoạch, nên họ đã quyết định cô lập khu vực bán đảo để quân Đức không thể điều động thêm quân tiếp viện vào khu vực này.[140] Sau màn thể hiện tệ hại của Sư đoàn Bộ binh 90 Hoa Kỳ, Thiếu tướng Joseph L. Collins, chỉ huy trưởng Quân đoàn VII, đã giao Sư đoàn Bộ binh số 9 Hoa Kỳ làm nhiệm vụ tiến công vào sâu trong bán đảo. Sư đoàn Bộ binh số 9 tiến vào được vùng biển phía tây Cotentin trong ngày 17 tháng 6, và cô lập thành công Cherbourg.[141] Với sự hỗ trợ của Sư đoàn Bộ binh số 4 và 79, Sư đoàn Bộ binh số 9 kiểm soát thành công Bán đảo Cotentin vào ngày 19 tháng 6, và chiếm thành công Cherbourg vào ngày 26 tháng 6. Tuy vậy, vào thời điểm đó, quân đồn trú Đức tại Cherbourg đã phá hủy toàn bộ cơ sở vật chất trong cảng trước khi đầu hàng lính Mỹ. Cảng Cherbourg chỉ được đưa vào hoạt động trở lại vào tháng 9 năm 1944.[142]

Caen

Bài chi tiết: Trận Caen (1944)
Xe tăng Churchill ARVE thuộc Sư đoàn Thiết giáp 79 đang tiến vào Caen, 10 tháng 7 năm 1944.

Chiến sự tại khu vực Caen giữa các đơn vị Anh và Đức nhanh chóng rơi vào bế tắc. Trong Chiến dịch Perch, Quân đoàn XXX có ý định tiến công xuống phía nam về Cao điểm Pinçon, nhưng ý định đó đã bị từ bỏ và họ chuyển sang kế hoạch tấn công gọng kìm để bao vây Caen. Sư đoàn Thiết giáp số 7 thuộc Quân đoàn XXX đã tiến công từ Tilly-sur-Seulles về phía Villers-Bocage, và Quân đoàn I cố gắng vòng qua Caen để tiến vào phía đông. Cuộc tấn công của Quân đoàn I sau đó đã bị chững lại và Quân đoàn XXX chiếm thành công khu vực Villers-Bocage. Các cuộc giao tranh nổ ra dữ dội, nhiều đơn vị thiết giáp Anh bị phục kích tại khu vực Villers-Bocage và Box khiến họ phải rút về Tilly-sur-Seulles.[143][144] Sau một cơn bão kéo dài từ ngày 17 tới ngày 23 tháng 6, người Anh mở Chiến dịch Epsom vào ngày 26 tháng 6, với nhiệm vụ là đưa Quân đoàn VII đi vòng qua Caen và tấn công Caen từ phía tây nam, đồng thiết lập một đầu cầu ở phía nam Sông Odon.[145] Mặc dù chiến dịch là một thất bại đối với người Anh, nhưng người Đức đã mất phần lớn số lượng xe tăng trong chiến dịch, khiến họ phải điều động toàn bộ các đơn vị Panzer còn lại vào trong khu vực.[146] Thống chế Rundstedt bị bãi nhiệm ngày 1 tháng 7 và Thống chế Günther von Kluge được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng OB West.[147] Các vùng ngoại ô phía bắc của Caen bị ném bom vào tối ngày 7 tháng 7 và người Anh chiếm thành công khu vực phía bắc Sông Orne trong Chiến dịch Charnwood vào ngày 8-9 tháng 7.[148][149] Phần còn lại của Caen và vùng đất cao phía nam Caen bị người Anh chiếm trong Chiến dịch AtlanticChiến dịch Goodwood từ ngày 18 tới ngày 21 tháng 7. Caen gần như bị phá hủy hoàn toàn sau khi người Anh tiến vào trong thành phố.[150]

Giai đoạn 2: Tiến sâu vào đất liền

Sư đoàn Bộ binh số 4 Hoa Kỳ đang hành quân qua một thị trấn ở Coutances, Pháp trong Chiến dịch Cobra.

Sau khi kiểm soát được khu vực Bán đảo Cotentin về phía nam đến tận Saint-Lô, Tập đoàn quân số 1 Hoa Kỳ của Trung tướng Ormar Bradley mở Chiến dịch Cobra vào ngày 25 tháng 7 và tiến xuống phía nam về Avaranches vào ngày 1 tháng 8.[151] Tập đoàn quân số 2 Anh Quốc của Trung tướng Miles Dempsey mở Chiến dịch Bluecoat vào ngày 30 tháng 7, với mục tiêu chiếm giữ Vire và Cao điểm Pinçon.[152] Tập đoàn quân số 3 của Trung tướng George Patton, được thành lập vào ngày 1 tháng 8 năm 1944, nhanh chóng đánh chiếm Brittany và khu vực đến tận phía nam Sông Loire, trong khi Tập đoàn quân số 1 duy trì áp lực ở phía đông về Le Mans để bảo vệ sườn của Tập đoàn quân số 3. Đến ngày 3 tháng 8, Tập đoàn quân số 3 tiến về phía đông, hướng tới nơi tập trung chính của lực lượng Đức ở phía nam Caen.[153] Bất chấp sự phản đối của Thống chế von Kluge, Hitler đã ra lệnh tiến hành một cuộc phản công (Chiến dịch Lüttich) từ Vire về phía Avraches.[154]

Một xe tăng Cromwell thuộc Sư đoàn Thiết giáp số 1 Ba Lan đang di chuyển qua một khẩu pháo Pak 43 bị quân Đức bỏ lại trong Chiến dịch Totalize.

Khi Quân đoàn II Canada tiến công từ Caen về phía nam, hướng đến Falaise trong Chiến dịch Totalize ngày 8 tháng 8, Bradley và Montgomery nhận ra rằng họ đang có một cơ hội ngàn vàng để bao vây quân Đức tại cái túi Falaise.[155] Tập đoàn quân số 3 tiếp tục khép vòng vây từ phía nam, và đánh chiếm thành công Alençon vào ngày 11 tháng 8. Mặc dù Hitler liên tục yêu cầu đến ngày 14 tháng 8 rằng các đơn vị Đức tại Falaise nên phản công, Kluge và ban tham mưu của ông bắt đầu lên kế hoạch rút lui về phía đông.[156] Cuộc hành quân của các lực lượng Đức đã bị cản trở nghiêm trọng bởi Hitler khăng khăng muốn tự mình đưa ra tất cả các quyết định quan trọng. Điều này khiến lực lượng của Hitler rơi vào trạng thái đứng yên và không có lệnh trong khoảng thời gian 24 giờ.[157] Chiều 12 tháng 8, Patton hỏi Bradley về việc đơn vị của Patton có nên tiếp tục tiến công lên phía bắc để giúp khóa chặt vòng vây quân đội Đức. Bradley từ chối, nói rằng Montgomery đã điều động Tập đoàn quân số 1 Canada vào khu vực phía bắc.[158][159] Quân đội Canada, dù gặp kháng cự mãnh liệt, nhưng họ vẫn chiếm thành công thị trấn Falaise vào ngày 16 tháng 8. Vòng vây của quân Đồng Minh được khép kín và khiến hơn 50.000 binh sĩ Đức bị bao vây, nhưng hơn 1/3 binh sĩ của Tập đoàn quân số 7 và chín trên 11 sư đoàn Panzer đã kịp rút lui về phía đông.[160] Quyết định bao vây cái túi Falaise của Montgomery đã gặp nhiều chỉ trích bởi các sĩ quan người Mỹ lúc đó, đặc biệt là Trung tướng George Patton, mặc dù Bradley tin rằng Patton sẽ không thể thu hẹp vòng vây kịp thời gian như Montgomery đã làm.[161] Hitler cách chức Thống chế Kluge khỏi quyền chỉ huy OB West vào ngày 15 tháng 8, và được thay thế bởi Thống chế Walter Model. Kluge uống thuộc độc tự sát vào ngày 19 tháng 8 sau khi Hitler được biết rằng ông có dính líu tới vụ ám sát Hiter vào ngày 20 tháng 7 năm 1944.[162][163]

Quân Kháng chiến Pháp tại Paris bắt đầu nổi dậy vào ngày 19 tháng 8 năm 1944.[164] Ban đầu, Eisenhower muốn bỏ qua Paris để theo đuổi các mục tiêu khác, nhưng sau khi nhận được báo cáo về nạn đói lan nhanh trong thành phố và tuyên bố của Hitler về việc phá hủy Paris, de Gaulle kiên quyết rằng Paris cần phải được chiếm lại bằng mọi giá.[165] Sư đoàn Thiết giáp số 2 Pháp Tự Do của Trung tướng Philippe Leclerc tấn công từ phía tây Paris vào ngày 24 tháng 8, và Sư đoàn Bộ binh số 4 Hoa Kỳ tiến công từ phía nam. Giao tranh lẻ tẻ diễn ra suốt đêm và Paris được quân Đồng Minh giải phóng vào sáng ngày 25 tháng 8.[166]

Trong ngày 25 tháng 8, Sư đoàn Thiết giáp số 2 Hoa Kỳ chiếm được Elbeuf và hội quân với các đơn vị thiết giáp Anh và Canada trong khu vực.[167] Sư đoàn Bộ binh số 2 Canada tiến vào Forêt de la Londe trong buổi sáng ngày 27 tháng 8. Khu rừng này được quân Đức tổ chức phòng thủ rất bài bản, khiến Lữ đoàn Bộ binh số 4 và 6 của Sư đoàn Bộ binh số 2 Canada gặp thương vong nghiêm trọng sau ba ngày chiến đấu. Quân Đức rút khỏi khu rừng vào ngày 29 tháng 8 và vượt Sông Seine vào ngày 30.[167] Chiều 30 tháng 8, Sư đoàn Bộ binh số 3 Canada vượt Sông Seine và tiến vào Rouen trong sự chào đón nồng nhiệt của người dân địa phương.[168]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Overlord_(1944) http://www.cmp-cpm.forces.gc.ca/dhh-dhp/his/docs/V... //lccn.loc.gov/53-61717 http://www.history.navy.mil/faqs/faq109-1.htm //doi.org/10.1080%2F13518046.2015.998134 http://www.ibiblio.org/hyperwar/UN/Canada/CA/OpSum... http://www.ibiblio.org/hyperwar/USA/USA-E-Supreme/... http://www.ibiblio.org/hyperwar/USA/ref/Casualties... //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... //www.worldcat.org/issn/1351-8046 //www.worldcat.org/oclc/1175409